Chuyển đến nội dung chính

Chính sách đối ngoại

Trong công cuộc đổi mới đất nước, một trong những vấn đề được quan tâm chú trọng chính là đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Kể từ Đại Hội Đảng lần thứ VI (12/1986), Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi với toàn diện đất nước nói chung và đổi mới tư duy đối ngoại nói riêng, trong đó phải kể đến chính sách tập hợp lực lượng. Bài tiểu luận này sẽ tập trung làm rõ : “Đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam về tập hợp lực lượng trong việc gia nhập ASEAN giai đoạn 1986 - 1996”. Trong đó có 3 vấn đề chính được đặt ra: Tại sao phải đổi mới tư duy đối ngoại? Nội dung đổi mới tư duy đối ngoại về tập hợp lực lượng từ sau năm 1986 là gì? Đổi mới tư duy đối ngoại về tập hợp lực lượng được biểu hiện như thế nào trong việc Việt Nam gia nhập ASEAN giai đoạn 1986 – 1996?


ĐỔI MỚI TƯ DUY ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỀ TẬP HỢP LỰC LƯỢNG TRONG VIỆC GIA NHẬP ASEAN GIAI ĐOẠN 1986 - 1996

1/ Bối cảnh quốc tế

Tình hình thế giới từ sau năm 1986 có nhiều sự thay đổi rõ rệt, đặc điểm của tình hình thế giới được nêu trong Đại hội VIII trong giai đoạn 1986 – 1996 như sau:

-       Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến các nước khối xã hội chủ nghĩa tan rã. Giai đoạn chiến tranh lạnh kết thúc, hình thành một trật tự thế giới đa cực với xu hướng toàn cầu hóa là chủ yếu.

-       Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, tuy nhiên các cuộc nội chiến, xung đột vũ trang, chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc và tôn giáo vẫn còn tồn tại.

-       Thế giới diễn ra cuộc Cách mạng khoa học và  công nghệ với những tiến bộ vượt bậc, nâng cao năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.

-       Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương phát triển nền kinh tế năng động, giàu tiềm năng với các nền kinh tế mới nổi được ví như con rồng ở Châu Á: Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, …tuy nhiên còn tiềm ẩn vài nhân tố gây mất ổn định.

-       Nảy sinh các vấn đề toàn cầu như: ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, dịch bệnh…cần có sự hợp tác quốc tế để giải quyết.

Các xu thế mới trong quan hệ quốc tế:

-       Hòa bình, ổn định, hợp tác là yêu cầu bức thiết của các quốc gia trên thế giới hiện nay, mới mục tiêu ưu tiên chung là phát triển kinh tế và tăng cường tổng hợp sức mạnh quốc gia.

-       Các quốc gia ngày càng tham gia nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, hội nhập kinh tế quốc tế, văn hóa – xã hội; tính cạnh tranh ngày càng gay gắt.

-       Các quốc gia nâng cao ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường bờ cõi; chống lại sự can thiệp của nước ngoài.

-       Các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập và tiến bộ xã hội.

-       Thế giới chuyển từ cục diện hai cực sang đa cực.

2/ Yêu cầu bức thiết của đất nước

Do phát triển chính sách kinh tế sai lầm, thiếu hiệu quả, theo mô hình kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp; sản xuất hạn chế, đóng cửa kinh tế, chỉ giao lưu với các nước trong khối chủ nghĩa xã hội, hoạch định chính sách đối ngoại dựa trên cơ sở của ý thức hệ dẫn đến nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong khi cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đang diễn ra trên toàn thế giới. Đất nước đang đứng trước nguy cơ tụt hậu yêu cầu vấn đề đặt ra hoặc là tuần tự bước từng bước để phát triển hoặc là đi đường tắt để bắt kịp các nước phát triển.

Từ việc đưa quân vào Campuchia năm 1979, Việt Nam gặp phải cái nhìn thù địch, tình trạng bao vây cấm vận, cô lập từ mọi phía.

Khủng hoảng kinh tế - xã hội sẽ dễ dẫn đến tình trạng người dân mất dần niềm tin vào Đảng và Nhà nước, có nguy cơ làm tan rã khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

3/ Nhận thức của các nhà lãnh đạo

Đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư Ban Chấp hành Trunng ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 7/1986 đã tóm tắt những đặc điểm nổi bật của nước ta thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí cũng đã chỉ ra “ bên cạnh những thành tựu to lớn đó, chúng ta đã phạm phải một số khuyết điểm sai lầm nghiêm trọng trong lĩnh vực xây dựng và quản lí kinh tế” và những sai lầm đó sẽ dẫn đến hậu quả : “ Trong những năm qua, do chúng ta mắc sai lầm chủ quan nóng vội, không tôn trọng, thậm chí làm trái quy luật khách quan, đồng thời lại bảo thủ, trì trệ nên đã duy trì quá lâu cơ chế quản kí tập trung quan liêu, bao cấp. Kết quả là sức sản xuất bị kìm hãm, không phát triển được: nhân dân ao động không phát huy được quyền làm chủ của mình trên thực tế, người ăn thì nhiều, người làm thì ít; năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng giảm sút; xã hội không có hoặc có rất ít sản phẩm, lưu thông ách tắc do tình trạng chia cắt thị trường khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn kéo dài, lạm phát triền miên, giá cả không ổn định, đời sống bấp bênh, các giá trị đạo đức, tinh thần bị xói mòn, tiêu cực phát triển”.[1]

Chủ tịch nước Nguyễn Văn Linh lúc bấy giờ đã nói “ đổi mới hay là chết” chính là để nhấn mạnh vai trò đổi mới tư duy của Đảng và Nhà nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng vô cùng khó khăn lúc đó.

II/ Đổi mới tư duy về chính sách tập hợp lực lượng từ sau năm 1986

1/ Cơ sở

Từ sau năm 1986, thế giới có rất nhiều chuyển biến, chúng ta phải tận dụng xu thế mới ưu tiên phát triển kinh tế, các nước lớn có nhiều chiến lược thay đổi; chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới không lấy ý thức hệ làm chuẩn mực nữa. Trong lúc đó, bối cảnh đất nước đặt ra yêu cầu làm giảm nguy cơ tụt hậu, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội đang diễn ra cùng với chính sách bao vây và cấm vận, cô lập từ các nước lớn và khu vực; chúng ta phải tập trung vào hai nhiệm vụ chiến lược hòa bình và phát triển. Cùng với đó là sự đổi mới tư duy về các cặp quan hệ : lợi ích quốc gia – nghĩa vụ quốc tế; an ninh – phát triển;  hợp tác – đấu tranh.

2/ Chính sách tập hợp lực lượng

Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị với tiếu đề: “Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đẳng và Nhà nước ta” chỉ rõ  “chủ trương chuyển từ đối đầu sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, với các đối tác chính”.

Đại hội VI cũng đã nhấn mạnh  “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, trong đó hòa bình là yêu cầu tất yếu để cùng tồn tại và phát triển. Muốn làm được thì quan trọng là phải “thêm bạn bớt thù” – điều này được nêu trong Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị.

Trong Đại hội VII cũng đã nêu rõ “chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển”.

Để thực hiện hóa những chính sách trên, trong thực tế, không coi Trung Quốc là kẻ thù mà là nước xã hội chủ nghĩa, là láng giềng lớn còn nhiều vấn đề tồn tại; 1/10/1988: điện mừng Quốc khánh Trung Quốc sử dụng dòng chữ “xã hội chủ nghĩa” tiếp đó sửa lời nói đầu trong Hiến pháp(12/1988); đến tháng1/1989: đàm phán với Trung Quốc, chuyển từ đối đầu sang đối thoại và bình thường hóa quan hệ hoàn toàn vào tháng 11/1991. Từ 1988, không đối lập hai nhóm nước, không coi ASEAN là khối quân sự trá hình; đến 29/07/1988: thông cáo mối quan hệ Việt Nam – Indonesia. Việt Nam không còn coi Mỹ là kẻ thù cơ bản lâu dài nữa(1988) và đến tháng 08/1990, bắt đầu đàm phán với Mỹ. Và cũng không coi Liên Xô là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm 1988.[2]

III/ Đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng trong việc Việt Nam gia nhập ASEAN giai đoạn 1986 – 1996

1/ Giai đoạn 1986 -1991:

Giữa những năm 80, các nước lớn bắt đầu bình thường hóa quan hệ, hòa bình - hợp tác, giải quyết vấn đề khu vực trong đó có vấn đề Campuchia. Các nước ASEAN lo ngại các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc sẽ gây bất lợi cho khu vực, do đó đã từng bước điều chỉnh quan hệ với Việt Nam, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho hòa bình, ổn định ở khu vực, nâng cao vai trò của ASEAN. Việt Nam đưa quân vào Campuchia với mục đích thể hiện nghĩa vụ quốc tế chính nghĩa nhưng chính nó lại thành trở ngại cho Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với các nước. Nhận thấy khoảng cách tụt hậu của mình so với các nước ASEAN và cần phải mở rộng quan hệ, ASEAN có thể giúp Việt Nam thuận lợi trong xu thế đối thoại, tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, tạo môi trường hòa bình ổn định để phát triển.

Trong Đại hội VI nhấn mạnh Việt Nam “mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết vấn đề ở Đông Nam Á thành khu vực hòa bình ổn định hợp tác”, khẳng định xu thể chuyển từ đối đầu sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình với ASEAN(07/1986); gỡ bỏ chủ trương 10 năm trước: “ tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN”, tăng cường đối thoại giữa các nhóm nước ASEAN và ba nước Đông Dương; tăng cường quan hệ với Indonesia, giải quyết bế tắc trong quan hệ với Thái Lan đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực; giải quyết những vấn đề còn tồn tại bằng thương lượng, thúc đẩy xây dựng hòa bình, ổn định hữu nghị và hợp tác.

Thực hiện tư duy đổi mới chính sách đối ngoại về tập hợp lực lượng, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và tiến hành chủ trương mở rộng quan hệ : khai thông quan hệ song phương Việt Nam – Indonesia(7/1987); chuyển đối đầu sang đối thoại khu vực, hợp tác giải quyết vấn đề khu vực JIM-1(7/1988); lần lượt cải thiện quan hệ với các nước, tăng cường trao đổi đoàn cấp cao.

Quan hệ Việt Nam – ASEAN sau đó được cải thiện rõ rệt. Các nước ASEAN đã vượt lệnh cấm vận bao vây của Mỹ, tách dần khỏi lập trường Trung Quốc và đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam – Đông Dương.

2/ Giai đoạn 1991 – 1996

Đổi mới tư duy về đối ngoại của Việt Nam được hình thành rõ ràng hơn trong Đại hội lần thứ VII với mục tiêu quan trọng “phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị, hợp tác”. Vấn đề hội nhập được biểu hiện bằng chính sách đối ngoại “ đa phương hóa, đa dạng hóa” các mối quan hệ.Việt Nam sẵn sàng tham gia vào các tổ chức, diễn đàn vì mục đích duy trì hòa bình, an ninh.

Việt nam từng bước phát triển mối quan hệ ngoại giao với ASEAN. Cụ thể, Việt Nam đã cử đoàn cấp cao đi thăm các nước ASEAN(10/1991 và năm1992), mở ra giai đoạn mới trong quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực. Đáp lại thiện chí đó, các nước ASEAN đã bỏ những hạn chế về thương mại và đầu tư với Việt Nam và từng bước phát triển mối quan hệ đi lên một tầm cao mới. Việt Nam đã giải quyết những vấn đề còn tồn tại với các nước ASEAN thông qua thương lượng, đáng chú ý là vấn đề biển Đông. Tháng 7/1995, việc Việt Nam gia nhập ASEAN được coi là quyết định đúng đắn, phù hợp với xu thế hội nhập hóa chung và mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam sau này. Năm 1998, Việt Nam được gia nhập APEC , đây được coi là điều kiện thuận lợi để Việt Nam học hỏi những tiến bộ khoa học kĩ thuật và mở rộng hợp tác quốc tế về kinh tế, đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ … với các thành viên khác.[3]

Thay vào đó, Việt Nam cũng cần khắc phục những thách thức để mối quan hệ Việt Nam – ASEAN dần đi vào chiều sâu hơn nữa.

Link bài đăng: (Bài chỉ mang tính chất tham khảo, các bạn chú ý plagiarím)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Nuestro amor es el mejor regalo (1)

  Nuestro amor es el mejor regalo – Tình yêu của chúng ta là món quà tuyệt vời nhất, một câu nói nhấn mạnh trọng tâm của mối quan hệ tình yêu đôi lứa nào có lẽ tình yêu là một điều may mắn quý giá nhất mà chúng ta từng gặp trong suốt chuyến hành trình của cuộc đời. Tôi nghe một người bạn nói, xác xuất để hai người gặp được nhau là 1: 20.200 và yêu nhau là 1: 2000. Con số thật là nhỏ! Một ngày như mọi ngày, tôi thích đi dọc những hàng cây ven đường bên hồ, thích cảm giác trong lành, hơi lành lạnh và một chút tươi mát của độ ẩm trong không khí. Đó là cảm giác giải tỏa mọi giác quan, dễ chịu và thoải mái. Dành thời gian cho một môn giải trí đam mê nào đó, tôi đã quyết định chọn một lớp chơi cờ vào buổi tối. Những quân cờ được đúc tinh xảo trên bàn cờ 64 ô vuông sẽ là một môn giải trí tuyệt vời. Bắt đầu lớp học không có gì nhiều, một số bộ bàn cờ được sắp xếp ngay ngắn, một vài chỗ đã có người bắt đầu chơi, một số còn chỗ trống, thường là mọi người chưa đến hết. Tôi có quen một vài ng...

Quan điểm tích cực về việc dòng vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng giảm trong giai đoạn 2014 – 2016

I/ Tổng quan về viện trợ ODA vào Việt Nam 1/ Khái niệm 1.1/ Bối cảnh ra đời ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II cùng với kế họach Marshall, để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế họach Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập một tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu, nay là (OECD). Trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước OECD đã lập ra những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển trong việc phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại là 25%, còn 75% là cho vay. Lợi thế khi vay nguồn viện trợ ODA là nguồn vốn khá lớn, điều kiện vay thuận lợi, lãi xuất thấp. ODA là nguồn vốn rất quan trọng đối với các nước đang phát triển. Cho đến nay chưa có định nghĩa hoàn chỉnh về ODA, nhưng sự khác biệt giữa các định nghĩa không nhiều. 1.2/ Khái niệm ODA ...

Điều tuyệt vời ở Dublin!

1.   -  Cháu chào bác, phiền bác có thể chỉ đường giúp cháu đến Trinity College được không ạ?   - Ồ dĩ nhiên rồi, cháu đi thẳng phố Wicklow, nhìn thấy đường Grafton thì rẽ trái, cứ đi thẳng là cháu sẽ đến.   - Cháu cảm ơn bác nhiều ạ!   - Không có gì, chào mừng tới Dublin! Tôi đưa tay lên xoa trán. Nếu không phải gặp được những người dân tốt bụng, chắc giờ tôi vẫn đang lang thang ở đâu đó rồi. Từ trước tới nay tôi gặp không ít khó khăn trong việc nhớ đường, lần này thì lại còn ở một đất nước xa xôi, cách quê hương tôi một phần tư bán cầu nữa chứ.  Và sự thật là,…Tôi đang ở Ireland. Tôi theo học tại trường Trinity College Dublin, một ngôi trường cổ kính danh tiếng v tuyệt đẹp tại thủ đô Dublin - Ireland . Tôi đã đặt chân đến Ireland được hai tuần, một khoảng thời gian không quá ngắn nhưng thực sự tôi vẫn chưa quen cuộc sống ở đây.  Tôi vẫn hay gặp chứng mất ngủ vì lệch múi giờ, ăn uống thất thường, không thì cũng gặp khó xử về giao ti...