I/ Tổng quan về viện trợ ODA vào Việt Nam
1/ Khái niệm
1.1/ Bối cảnh ra đời
ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II cùng
với kế họach Marshall, để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp
bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế họach Marshall, các nước
Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập
một tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu, nay là (OECD).
Trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước OECD
đã lập ra những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC)
nhằm giúp các nước đang phát triển trong việc phát triển kinh tế và nâng cao
hiệu quả đầu tư. ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại là 25%, còn 75% là cho
vay. Lợi thế khi vay nguồn viện trợ ODA là nguồn vốn khá lớn, điều kiện vay
thuận lợi, lãi xuất thấp. ODA là nguồn vốn rất quan trọng đối với các nước đang
phát triển.
Cho đến nay chưa có định nghĩa hoàn chỉnh về
ODA, nhưng sự khác biệt giữa các định nghĩa không nhiều.
1.2/ Khái niệm
ODA (Official Development Assistance) là nguồn
vốn vay ưu đãi từ nước ngoài, hay gọi là vốn “Hỗ trợ phát triển chính thức”
- Gọi
là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không
lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài.
- Gọi
là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát
triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư.
- Gọi
là Chính thức vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Với đặc thù về tính ưu đãi nên ODA còn được gọi
là "viện trợ ODA" (nước viện trợ ODA-nước nhận viện trợ ODA), nhưng
suy cho cùng, ODA cũng là một hình thức đầu tư nước ngoài.
1.3/ Đặc điểm
- Lãi
suất thấp (thường dưới 3%/năm, trung bình từ 1-2%/năm)
- Thời
gian cho vay cũng như thời gian ân hạn vay dài (thường từ 25-40 năm mới phải
hoàn trả và thời gian ân hạn vay 8-10 năm)
- Trong
nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của
tổng số vốn ODA.
- ODA
là nguồn vốn rất quan trọng cho các nước chậm và đang phát triển
2/ Các hình thức của ODA
Phân loại theo phương thức hoàn trả :
- Viện trợ
không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn
lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận giữa các
bên
- Viện
trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi): nhà tài trợ cho nước cần vốn vay
một khoản tiền( tuỳ theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và
thời gian trả nợ thích hợp
- ODA
cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một
phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát
triển, thậm chí có loại ODA vốn vay kết hợp tới 3 loại hình gồm một phần ODA
không hoàn lại, một phần ưu đãi và một phần tín dụng thương mại
Phân loại theo nguồn cung cấp :
- ODA
song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia (nước
phát triển viện trợ cho nước đang và kém phát triển) thông qua hiệp định được
ký kết giã hai chính phủ
- ODA
đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế, hay tổ
chức khu vực hoặc của chính một nước dành cho Chính phủ một nước nào đó, nhưng
có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình
phát triển Liên Hợp Quốc)…có thể các khoản viện trợ của các tổ chức tài chính
quốc tế được chuyển trực tiếp cho bên nhận viện trợ
Phân loại theo mục tiêu sử dụng :
- Hỗ
trợ cán cân thanh toán
- tín
dụng thương nghiệp
- viện
trợ chương trình
- viện
trợ dự án
3/ Viện
trợ ODA vào Việt Nam qua các giai đoạn
3.1/ Giai
đoạn trước năm 2014
Sau 22 năm (1993-2014), qua công tác vận động,
thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam đã thu được nhiều kết quả tích
cực. Tổng số vốn ODA cam kết đạt 85,2 tỷ USD, tổng giá trị các hiệp định ký kết
đạt 70,3 tỷ USD và số vốn giải ngân đạt 48,4 tỷ USD. Nguồn vốn tài trợ năm sau
thường cao hơn năm trước và đạt mức cao nhất vào năm 2009-2010 (Biểu đồ 1).
Năm 2009, từ mức cam kết kỷ lục 8 tỷ USD, xuống
2,9 tỷ USD năm 2010, 7,3 tỷ USD năm 2011. Nguồn Viện trợ ODA vào Việt Nam đã có
dấu hiệu giảm xong tiếp tục tăng dần từ năm 2012 – 2014 nhưng chưa thể đạt mức
như năm 2009.
Nguồn vốn ODA có mặt ở hầu hết các lĩnh vực kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, đã góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm
nghèo và cải thiện đời sống của nhân dân
Cơ cấu
ODA ký kết vào các lĩnh vực như Biểu đồ 2, trong đó, có thể thấy, nhiều nhất là
lĩnh vực giao thông vận tải.
3.2/ Giai
đoạn từ năm 2014 – 2016
Giai đoạn
từ năm 2014 – 2016, dòng vốn ODA vào Việt Nam đã có dấu hiệu sụt giảm rõ rệt.
9 tháng năm 2014, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi
ký kết đạt 3,519 tỷ USD (trong đó, vốn vay là 3,459 tỷ USD, viện trợ không hoàn
lại 60 triệu USD), bằng 76% so với cùng năm ngoái. Điều này chững tỏ lượng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2014 đã giảm đáng kể so với năm 2013.Tuy
nhiên, tổng giá trị giải ngân chín tháng năm nay lại cao hơn 10% so với mức
giải ngân của cùng kỳ năm ngoái, ước đạt 4,105 tỷ USD. Tính đến tháng 9/2014,
vốn ODA và vay ưu đãi giải ngân tiếp tục đạt khá so với cùng kỳ, tình hình giải
ngân lại có những cải thiện đáng kể. (Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư)
9 tháng đầu năm 2015, tổng vốn ODA và vốn vay ưu
đãi của các nhà tài trợ nước ngoài ký kết đạt khoảng 2.729 triệu USD, trong đó
vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đạt khoảng 2.698 triệu USD, vốn
ODA đạt khoảng 31,91 triệu USD. Chính phủ nhận định, tình hình giải ngân vốn
ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đã có nhiều cải thiện
Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Nguyễn Thế Phương, trong 9 tháng đầu năm 2016 vốn ODA và tống vốn vay ưu đãi
đã ki kết đạt khoảng trên 4,9 tỷ USD, cao gấp 1,8 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự đột biến này là do có một số khoản ODA của Nhật Bản dự kiến ký kết trong tài
khóa 2015 của Nhật Bản chậm so với dự kiến và lùi sang tài khóa 2016.
Vốn ký kết tăng mạnh, tuy nhiên, tổng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi giải ngân 9 tháng đầu năm nay chỉ đạt 2.685/5.100 triệu USD,
bằng 52,6% kế hoạch giải ngân năm 2016 và bằng 81,4% mức giải ngân của cùng kỳ
năm trước. ức giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi năm 2016 sẽ khó
đạt được mức 4,65 tỷ USD của năm 2015.
Trong đó, giải ngân của 6 ngân hàng phát triển
trong 9 tháng qua ước đạt 1,259 tỷ USD đối với JICA, 691 triệu USD với WB, 639
triệu USD với ADB, 75 triệu USD với KEXIM, 18 triệu USD với AfD và 78,54 triệu
USD với KfW.
Trong đó, một số chương trình, dự án có giá trị
vốn vay ODA lớn, được ký kết như Chương trình hỗ trợ quản lý kinh tế và nâng
cao khả năng cạnh tranh (EMCC 2) trị giá 147,60 triệu USD do Nhật Bản tài trợ;
Dự án xây dựng nhà máy điện Thái Bình 1 và đường dây truyền tải trị giá 358,11
triệu USD do Nhật Bản tài trợ; Dự án quản lý tài sản đường bộ Việt Nam do Ngân
hàng Thế giới tài trợ tổng giá trị là 251,7 triệu USD…
4/ Tác
động của ODA
Vai trò của ODA
Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và
kém phát triển là điều không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những
thành công mà các nước tiếp nhận ODA đã đạt được.
- Thông
qua ODA song phương các nước đang phát triển có thêm vốn để phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất nước.
- Việc
sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại
tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho
các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và phát triển.
- Tạo
điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế,
thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
- ODA
tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh
thổ giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi
trường.
- ODA
còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy móc thiết bị cần
thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các nước phát
triển.
Hạn chế
của ODA
Bên cạnh
những mặt tích cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế.
- Hạn
chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu muốn nhận
được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp
ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều.
- Viện
trợ ODA không chỉ là viện trợ vốn mà còn ảnh hưởng đến kinh tế và chính trị của
nước nhận viện trợ, làm tăng vị thế và sự ảnh hưởng của nước viện trợ
- Nhận
viện trợ ODA, nền kinh tế trong nước sẽ dần bị phụ thuộc, khó có thể tạo được
bước đột phá và chủ động trong trong chiến lược phát triển đất nước
- Nhận
viện trợ ODA trong một thời gian dài có thể gây ra gánh nạng về nợ công
- Tình
trạng tập trung ODA vào các thành phố trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối
trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc gia đó, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo
thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt.
- Còn
tồn tại khá nhiều vấn đề trong công tác quản lý và sử dụng vốn ODA gây ra tình
trạng thất thoát và lãng phí nguồn vốn này. Vấn đề công khai minh trong các dự
án ODA được đặt ra.
- Tham
nhũng, hối lộ đã ảnh hưởng đến lòng tin của nước tài trợ
II/ Tác động tích cực khi dòng vốn ODA vào Việt
Nam có xu hướng giảm
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của viện
trợ ODA đối với Việt Nam nhưng bên cạnh đó, ODA vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
Trong những năm trở lại đây, Việt Nam đang dần được coi là một nước có mức thu
nhập trung bình nên nguồn vốn ODA viện trợ cho Việt Nam đang có xu hướng bị cắt
giảm và có thể Việt Nam sẽ phải tốt nghiệp ODA trong tương lai. Điều này có thể
gây ra cả hai mặt tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước.
Trong đó tác động tích cực của việc ODA vào Việt Nam sẽ nhiều hơn là tiêu cực.
Trong ngắn hạn, thiếu ODA sẽ gây ra nhiều khó khăn đối với sự phát triển của
đất nước, nhưng xét về dài hạn, đây là điều kiện tốt cho Việt Nam giảm sự lệ
thuộc vào nước ngoài, thúc đẩy cải cách cơ chế tài chính, tạo thế chủ động
trong phát triển kinh tế và xã hội.
1/ Kinh tế Việt Nam giảm dần sự phụ thuộc vào
nguồn vốn ODA, chúng ta sẽ chủ động hơn trong việc huy động và sử dụng vốn
Việt Nam đã thành công nhiều mặt khi thu hút và
sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các nhà tài
trợ. Việt Nam đã từ một nước nghèo vươn lên trở thành nước có thu nhập trung
bình. Đây là một thành công lớn nhưng cũng đặt ra thách thức trong tương lai
không xa, Việt Nam không còn nhận được ODA dồi dào như trước, phải tiếp cận,
huy động cả các nguồn vốn đắt hơn với các điều kiện khắt khe hơn...
Thực tế đó buộc chúng ta phải đặt ra bài toán
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, vốn phải được sử dụng có trọng tâm, trọng
điểm, đúng mục đích. việc đầu tư phải có lựa chọn, có chọn lọc, dự án được
đầu tư phải góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, tạo giá trị gia
tăng, nâng cao hiệu quả cho nền kinh tế. Do vậy, đã đến lúc Việt
Nam cần cắt giảm ODA để nền kinh tế giảm phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài và
tăng tính chủ động trong hoạt động huy động và sử dụng vốn.
- Khi
giảm vay vốn ưu đãi ODA, chuyển sang vay vốn thương mại giúp Việt Nam chủ động
hơn trong cách sử dụng vốn
Việc vay thương mại, lãi suất cao, áp lực trả nợ
lớn, buộc người đi vay phải có những tính toán để sử dụng nguồn vốn vay sao cho
hiệu quả nhất. Về cơ bản, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì phải gắn trách
nhiệm sử dụng vốn với một đơn vị hoặc một cá nhân nào đó. Chính phủ dự định
nguồn vốn ODA sẽ về cho vay lại chứ không mang tính cấp phát như trước. Địa
phương như vậy sẽ phải tính nếu như những nguồn vốn đấy có thể mang lại hiệu
quả từ việc thu phí, thu thuế để có thể trả nợ được thì họ có thể sẽ vay, còn
nếu như dự án mà không hiệu quả, không thể trả nợ thì sẽ vay ít hơn.
Việc sử dụng vốn ODA thoải mái đã dẫn đến việc
thất thoát, lãng phí, gây ảnh hưởng đến mức nợ công an toàn của quốc gia. Cụ
thể các dự án được triểm khai kém khoa học, nhiều vụ tham nhũng: vụ PMU18 vào
năm 2006,bị thất thoát 3,5 tỷ đồng, một trong những dự án liên quan đến nguồn
vốn ODA đã gây chấn động dư luận một thời gian dài bởi mức độ nghiêm trọng của
nó; Vào năm 2011, Huỳnh Ngọc Sĩ - giám đốc ban quản lý dự án đại lộ Đông
Tây bị kết án 20 năm tù do nhận hối lộ 262.000 USD từ các nhà thầu Nhật Bản;
Mới đây, vào năm 2012 chính Bộ Ngoại giao Đan Mạch đã không ngần ngại tuyên bố
ngừng 3/4 dự án ODA tài trợ cho Việt Nam do nghi ngờ một số cơ quan đơn vị sử
dụng chi sai khoảng 11,4 tỉ đồng trên tổng số tiền 69 tỉ đồng do Đan Mạch tài trợ.
- Ngoài
ra, việc huy động vốn còn bị thụ động do các dự án ODA giải ngân chậm tiến độ.
Ngoài những nguyên nhân từ phía bộ ngành của Việt Nam, còn có những nguyên do
từ phía tài trợ phê duyệt đấu thầu chậm dẫn đến giải ngân vốn ODA chậm
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 9 tháng
đầu năm 2016, nước ta đã ký kết 35 hiệp định với tổng giá trị ODA và vốn vay ưu
đãi đạt hơn 4,9 tỉ USD, tăng 1,8 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng tổng giá
trị giải ngân trong 9 tháng ước đạt 2,69 tỉ USD, chỉ bằng 81,4% mức giải ngân
của cùng kì năm ngoái và mức giải ngân các nguồn vốn này không đồng đều giữa
các bộ, ngành, địa phương.
Trong 6 tháng đầu năm 2015, các ngành, các cấp
đã chủ động, tích cực, trong công tác vận động, tổ chức thực hiện và giải ngân
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi. Tuy nhiên, kết quả ký kết hiệp định và tốc độ
giải ngân chương trình, dự án vẫn chậm đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái. Vẫn
còn 21 tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã cam kết nhưng chưa được giải ngân;
14 dự án, nhất là các dự án đường sắt đô thị ở Hà Nội và Tp.HCM triển khai rất
chậm
Theo báo cáo của Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia
về ODA, thì năm 2014, vốn vay ưu đãi giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi năm
2014 đạt khoảng 5,6 tỷ USD (ODA vốn vay là 5,25 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn
lại là 350 triệu USD).
Bộ Giao thông vận tải là cơ quan có lượng vốn
ODA bị đọng lớn nhất, tiếp đến Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn. Theo Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Ngọc Đông, các dự
án của Bộ bị vướng nhất ở khâu giải phóng mặt bằng, vốn đối ứng khi mới bố trí
được 2.500 tỷ đồng cho năm 2014, bằng 30% so với nhu cầu. Hiện cơ quan này còn
39 dự án, tổng mức đầu tư 17,7 tỷ USD đang triển khai, trong đó vốn ODA là 15,6
tỷ USD.
Sự chậm trễ này đang là nguyên nhân khiến chi
phí gia tăng và không phát huy được lợi ích của dự án có sử dụng vốn vay ODA.
việc chậm giải ngân không chỉ khiến nguồn vốn này tăng lãi suất trả nợ, trong
khi số vốn nằm bất động, mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và đặc biệt
là ảnh hưởng đến kế hoạch và chiến lược phát triển.
- ODA
là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính
chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử
dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời
gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn
ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu
trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, cần phải hoạch
định lại chính sách sử dụng ODA, tập trung vào một số ngành quan trọng để tăng
cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. trong nước.
2/ Giảm các tác động tiêu cực về sự đánh đổi
trong quá trình sử dụng vốn ODA
Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích
của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị
trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Các nước giàu khi viện trợ ODA
đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác
có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu
chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ
quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình
hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế
giới). Việc dòng vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng giảm đem lại những tín hiệu
tích cực cho sự đánh đổi trong quá trình sử dụng vốn ODA của nước ta về nhiều
mặt.
2.1/ Về kinh tế :
- Việt
Nam khi tiếp nhận nguồn vốn ODA viện trợ từ nước ngoài phải chấp nhận dỡ bỏ dần
hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập
khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Ngoài ra, chúng ta cũng được yêu cầu từng
bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài
trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như
cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
Ngày 1/9/2016, Chính phủ ban hành Nghị định
125/2016/NĐ-CP về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện
Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về đối tác kinh tế giai đoạn 2016-2019 hay
nói cách khác Nhật Bản được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt, điều này chỉ
giới hạn trong một số quốc gia, đặc biệt như Nhật Bản – nhà tài trợ lớn của
Việt Nam.
Theo Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13 tháng 8
năm 2010 của Chính phủ, cho phép miễn thuế trong các trường hợp: hàng hóa nhập
khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư; dự án đầu tư bằng
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
- Nguồn
vốn ODA từ các nước giàu cung cấp thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các
nước này không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước
nghèo.
Ví dụ như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo,
lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường
chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên
gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như
vậy trên thị trường lao động thế giới).
- Nguồn
vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu
tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận phải
chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng
50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%.
Và khoảng 22% viện trợ của DAC( Development Assistance Committee-Uỷ ban Hỗ trợ
phát triển ) phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện
trợ.
- Nước
tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các
danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù
không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình
thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia, lao động.
Một ví dụ điển hình đó là các dự án đầu tư hoặc
có vốn vay ODA của Trung Quốc thường yêu cầu đưa một lượng lớn lao động sang
làm việc, gây ra rất nhiều những hệ lụy không đáng có. Điều đó cho thấy sự mất
mát lớn hơn nhiều so với cái được mà các dự án này mang lại.
- Tác
động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại
tăng lên.
Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực
hiện bằng đồng Yên Nhật. Đây là đồng ngoại tệ mạnh trong khi đồng tiền của nước
ta lại yếu, mất giá sẽ khiến khối lượng tiền ta phải trả sau đó là rất
lớn. Trong năm 2009, số nợ gốc Việt Nam đã trả là 21 tỷ yen, tương
đương khoảng 210 triệu USD, tính đến này thì con số phải trả sẽ còn lớn hơn thế
này rất nhiều.
2.2/ Về chính trị
Vay ODA không chỉ liên quan về mặt kinh tế mà
còn ảnh hưởng cả đến yếu tố chính trị với nước cho vay. Các nước phát triển sử
dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của mình
tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Viện trợ của các nước phát triển không
chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết
lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ.
Ví dụ cụ thể nhất là việc Việt Nam nhận viện trợ
ODA từ Trung Quốc.Trong chuyến thăm Việt Nam của Ông Tập Cận Bình hồi cuối
2015, Trung Quốc đã chuyển khoản vay ưu đãi bên mua trị giá 300 triệu USD sang
sử dụng cho dự án đường cao tốc Móng Cái – Vân Đồn; bổ sung khoản vay ưu đãi
chính phủ 250 triệu USD cho dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông và công
bố công kế hoạch cung cấp viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm tới để giúp
Việt Nam xây dựng các trình cải thiện dân sinh như trường học, bệnh viện. Theo
các chuyên gia, Việt Nam đang phụ thuộc rất nhiều vào Trung Quốc về kinh tế,
thương mại trong khi vẫn còn những tranh chấp biển Đông vẫn chưa được giải
quyết. Vì vậy, mà một đại biểu Quốc hội đã từng đặt câu hỏi: Nhận viện trợ và
vay ODA lãi suất rẻ của Trung Quốc thì sau này kiện đòi lãnh thổ liệu có làm
được không?
Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới
và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và
kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại
lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với
những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài
chính rất lớn cho các nước Đông nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về
mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu
cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ
USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay
tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia.
3/ Tạo động lực cải cách cơ chế quản lí Nhà
nước, xây dựng chiến lược phù hợp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài
Trong điều kiện Việt Nam đã trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, quan hệ với các nước viện trợ ODA đã thay
đổi: Việt Nam từ nước nhận viện trợ chuyển sang quan hệ đối tác phát triển. Từ
nay, về mặt tài chính, các khoản vay ODA mới sẽ có điều kiện khó khăn hơn, đặc
biệt là lãi suất vay sẽ cao hơn, thời hạn vay ngắn hơn… Do đó, Việt Nam cần có
những chính sách hợp lý, vay an toàn và sử dụng hiệu quả, đặc biệt là cần có
chiến lược lựa chọn kỹ lưỡng, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ trong nền kinh tế. Từ đó,
từng bước “thoái lui” có lộ trình khỏi nguồn vốn vay ODA.
- Những
chính sách của chính phủ
Ngày 26/3/2016, Phó Thủ tướng đã yêu cầu quán
triệt nghiêm túc thực hiện Nghị định số 16/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ, quán triệt tinh thần, nguyên tắc chỉ
đạo, những lĩnh vực ưu tiên sử dụng theo từng nguồn vốn (ODA không hoàn lại,
ODA vốn vay, vốn vay ưu đãi); đảm bảo thực hiện các cam kết của phía Việt Nam,
bao gồm công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, bố trí nhân lực có chất lượng, bố
trí đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu phải xác định ngưỡng
an toàn trong vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi, không ảnh hưởng đến trần nợ công…
để nâng cao trách nhiệm, hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của
các nhà tài trợ, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
đồng thời đảm bảo an toàn nợ công bền vững.
Đồng thời, các cơ quan chủ quản và chủ dự án
phải nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị, thiết kế, giám sát chất lượng của
cấp có thẩm quyền, hạn chế tối đa các điều chỉnh, thay đổi trong quá trình thực
hiện để tránh gây lãng phí và kéo dài thời gian thực hiện chương trình, dự án,
thực hiện các giải pháp xử lý vướng mắc của những chương trình, dự án chậm tiến
độ.
Ngoài ra, chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn ODA thông qua việc ban hành Luật Đầu tư công (có hiệu lực
từ 1/1/2015). Trong luật nêu rõ trách nhiệm của từng người. Ví dụ như giao một
khoản tiền cho công trình và yêu cầu hoàn tất trong thời hạn 36 tháng thì phải
làm đủ 36 tháng là xong chứ không được kéo dài tới 42 tháng. Toàn bộ quy
trình phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, bố trí vốn kế hoạch,
triển khai giải ngân…đều phải tuân thủ các trình tư, thủ tục chặt chẽ hơn trước
rất nhiều. Luật đã quy định theo hướng nâng cao kỷ cương, kỷ luật trong
quản lý đầu tư công, từ khâu phê duyệt chủ trương, thẩm định nguồn vốn nhằm hạn
chế cơ chế "xin - cho", tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí,
phòng chống tham nhũng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
- Hạn
chế thấp nhất những sai phạm trong việc sử dụng vốn ODA
Trong những năm gần đây, việc huy động và sử
dụng vốn ODA đã bộc lộ nhiều yếu kém, trong đó bộc lộ rõ việc thất thoát lãng
phí. Việc sử dụng ODA thường kèm theo hình thức chỉ định thầu nên thiếu cạnh
tranh, nước hỗ trợ ODA thường có điều kiện kèm theo là công ty của nước họ
trúng thầu và yêu cầu mua thiết bị, vật tư từ nước tài trợ ODA. Chính vì vậy,
nguồn ODA của dự án thường tăng hơn rất nhiều so với dự toán ban đầu, một số dự
án thiếu hiệu quả trong việc sử dụng vốn ODA.
Bên cạnh đó, việc lãng phí do chậm tiến độ, lãng
phí do sức đầu tư cao không phát huy hiệu quả. Cụ thể tuyến đường sắt Cát Linh
- Hà Đông đã thay đổi phương án thiết kế và dự án bổ sung thêm một số hạng mục
làm tổng vốn dự án bị đội lên với chi phí phát sinh rất cao, dự án này đã bị
chậm tiến độ hơn 2 năm, đồng thời bị đội vốn hơn 61% tương ứng với 339 triệu
USD.
Vì vậy, để hạn chế những tác động tiêu cực, phát
huy tính năng của nguồn vốn ODA, cần có quy hoạch sử dụng vốn vay ODA trong
chiến lược phát triển của ngành và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương. Cần nâng cao chất lượng giám sát, theo dõi và đánh giá dự án, đồng
thời nâng cao năng lực và nhận thức của đội ngũ tham gia quản lý, sử dụng vốn
ODA, đẩy mạnh công tác thanh, kiểm tra phòng, chống tham nhũng, sử dụng vốn
vay.
Đặc biệt, cần hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ
chế quản lý tài chính việc sử dụng vốn ODA thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các cam
kết với các nhà tài trợ, giải quyết tốt vấn đề giữa vay và trả nợ vốn ODA, tổ
chức rà soát danh mục đầu tư có lựa chọn.
- Tham
nhũng là thực trạng đáng ngại của các dự án sử dụng vốn ODA, gây thiệt hại
cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến lợi ích xã hội, hình ảnh Việt Nam với
nước tài trợ
Chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cho biết, cơ
quan này đã nhận tới 189 khiếu nại liên quan đến tham nhũng trong các dự án ở
Việt Nam và chỉ đứng sau Ấn Độ. Trong danh sách của Ngân hàng Thế giới, số vốn
vay có liên quan tới các khiếu nại này của Việt Nam là 11,3 tỷ USD, đứng thứ 4
trong danh sách. Thông điệp Ngân hàng Thế giới đưa ra hết sức quan trọng. Nó
cho thấy sự quan ngại của cơ quan này cũng như các nhà tài trợ đối với tình
trạng tham nhũng của Việt Nam là rất lớn.
Đầu tiên, uy tín cũng như tiếng nói trên diễn
đàn quốc tế của Việt Nam đã bị ảnh hưởng khá nhiều do những tình trạng tiêu
cực, tham nhũng tại các dự án sử dụng vốn ODA. Bằng chứng là cơ quan tài trợ
của Anh đã ngưng, và tổ chức SIDA của Thụy Điển cũng đã cân nhắc các hoạt động
tài trợ vốn cho Việt Nam.
Điều đáng nói ở đây là việc phát việc tham nhũng
không phải do chủ đầu tư hay các cơ quan nhà nước có tránh nhiệm quản lý nguồn
vốn ODA, mà do báo chí nước ngoài đưa tin. Thực tế, hệ thống phát hiện tham
nhũng ở Việt Nam có vấn đề, hoạt động kém hiệu quả. Những vụ việc tham nhũng,
gian lận được phát hiện và xử lý chưa tương xứng với những đánh giá về mức độ
rủi ro trong lĩnh vực này. Cho đến nay, những vụ gian lận, tham nhũng liên
quan tới các dự án ODA phát hiện được không nhiều.
Một ví dụ điển hình là sự việc chủ tịch công ty
tư vấn đường sắt JTC Nhật Bản hối lộ một số công chức Việt Nam để nhận thầu dự
án được báo chí Nhật phanh phui từ cuối tháng 3/2014, sau khi Chủ tịch của JTC
thừa nhận hối lộ 66 triệu yen để đổi lại việc trúng thầu dự án ODA. Ngày 2/6,
Chính phủ Nhật Bản thông báo tạm đình chỉ cấp mới vốn vay ODA để tập trung giải
quyết vụ việc.
Cuối tháng 7/2014 chính phủ nước này đã quyết
định nối lại việc cung cấp vốn viện trợ phát triển chính thức cho các dự án mới
tại Việt Nam sau khi đã áp dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn tham nhũng, tiêu
cực. Động thái này đi kèm với việc Việt Nam phải tăng minh bạch trong quy trình
đấu thầu và xử phạt những người vi phạm. Giới chức Nhật Bản cũng sẽ gặp quan
chức Việt Nam hai lần một năm để kiểm tra tiến độ thực thi các biện pháp này.
- Cần
cải cách xây dựng chiến lược phù hợp
Đầu tiên, tình hình thực tiễn các dự án thường
bị chậm ở nhiều khâu: chậm thủ tục, chậm triển khai, giải ngân chậm, tỷ lệ giải
ngân thấp. Do vậy, phải thời gian hoàn thành dự án kéo dài làm phát sinh các
khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư thực tế thường tăng hơn so với dự kiến và cam
kết, đồng thời, cũng làm giảm tính hiệu quả của dự án khi đi vào vận hành khai
thác.
Thứ hai, công tác theo dõi, đánh giá tình hình
đầu tư ODA còn rất nhiều hạn chế. Đặc biệt là công tác theo dõi, thống kê, kiểm
tra đánh giá hiệu quả của công trình sau đầu tư còn bỏ ngõ, ngoại trừ các dự án
vay lại và đang trong thời gian trả nợ. Kết quả quản lý thường được đánh giá
chỉ bằng công trình mà chưa xem xét đến hiệu quả sau đầu tư một khi công trình
được đưa vào sử dụng. Quan điểm và cách làm này gây khó khăn cho việc đánh giá,
định hướng đầu tư từ nguồn ODA tạo nên sự lãng phí và né tránh trách nhiệm của
những bộ phận liên quan.
Dẫn chứng cụ thể là dự án trích dầu cám ở Bến
Tre và dự án dây chuyền dệt bao đay ở TP. Hồ Chí Minh. Hai dự án này, vay vốn
ODA của Ấn Độ nhưng vì công nghệ lạc hậu, không có nguyên liệu, không có nơi
tiêu thụ nên khi bàn giao hoàn toàn không vận hành được. Chương trình phát
triển dâu tằm tơ ở Lâm Đồng vay vốn của Ý thất bại do sản phẩm không cạnh tranh
được trên thị trường.
Thứ ba, năng lực nhà thầu/tư vấn không đáp ứng
được yêu cầu công việc. Một số nhà thầu trong nước thực sự yếu kém trong khâu
quản lý, vận hành, gây chậm tiến độ công việc cũng như ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng công trình. Ngoài ra, đối với một số dự án tài trợ theo hình thức
viện trợ có ràng buộc xảy ra tình trạng nhà thầu là công ty của nước cung cấp
viện trợ bị phá sản, do đó không thực hiện hợp đồng đã ký. Điển hình là Dự án
Mở rộng hệ thống cấp nước Mê Linh và Dự án nâng cấp và mở rộng hệ thống cấp
nước TP. Cà Mau đều do Italia tài trợ. Nhà thầu chính thi công các dự án này đã
tuyên bố chính thức phá sản và không thể hoàn thành dự án.
Thực tế này đặt ra vấn đề cho các cơ quan quản lý Nhà nước về ODA, cơ quan chủ quản và chủ dự án phải tính toán ký lưỡng, chuẩn bị mọi tình huống trước khi thoả thuận với nhà tài trợ khi ký kết hiệp định hoặc với nhà thầu khi ký hợp đồng.
*Đóng
góp with my team!